Ông Lê Văn Đ kết hôn với bà Lê Thị H và sinh được 5 người con là: Lê Công Đ (liệt sỹ), ông Lê Công M (mất), bà Lê Thị Ng, bà Lê Thị B và bà Lê Thị N. Gia đình ông Đ- bà H đều có họ khẩu tại xã Quỳnh H, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
Do 2 người con trai của vợ chồng ông Đ - bà H mất khi chưa lập gia đình riêng nên ông Đ có quan hệ như vợ chồng với bà Bùi Thị K (không đăng ký kết hôn) và có một người con trai là Lê Văn Q (sinh ngày 01/01/1948).
Ông Lê Văn Q kết hôn với bà Lê Thị Kh (sinh năm 1948) và sinh được 2 người con trai là Lê Văn Th (sinh 1979) và Lê Văn L (sinh năm 1981).
Ông Lê Văn Th sinh được người con là Lê Nam Ph (sinh ngày 31/10/2005).
Ông Lê Văn Lợi sinh được 1 người con là Lê Công H.
Những người trên có hộ khẩu tại xã Quỳnh H, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
Vợ chồng ông Đ - bà H mất, để lại toàn bộ tài sản trên đất (là ngôi nhà cấp 4) và quyền sử dụng 639m2 đất mang tên bà Lê Thị H tại xóm 2 (nay là thôn 1), xã Quỳnh H, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An cho ông Lê Văn Q.
Năm 2020, ông Lê Văn Q qua đời. Trước khi mất, ngày 13/6/2019, ông Lê Văn Q để lại di chúc bằng văn bản (có chứng thực của UBND xã Quỳnh H) với nội dung: Ông Q để lại cho cháu Lê Nam Ph 639m2 đất ở nêu trên.

Ngày 13/10/2021 bà Lê Thị B cư trú tại thôn Định Thiềng, thị trấn Vĩnh Thạnh, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định, có đơn khởi kiện gửi Tòa án nhân huyện Quỳnh Lưu. Nội dung đơn khởi kiện, bà B yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu: “Hủy việc cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số AL993058 mang tên ông Lê Văn Q do UBND huyện Quỳnh Lưu cấp ngày 17/9/2008 đối với thửa đất 343 tờ bản đồ số 14 theo bản đồ địa chính tại xóm 2 (nay là thôn 1), xã Quỳnh H, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, có diện tích 639m2 (theo bản đồ 299 là thửa 235, tờ bản đồ số 6; bản đồ địa chính số là thửa 56, 57 tờ bản đồ số 29 có diện tích 642m2. Buộc bà Lê Thị Kh và ông Lê Văn Th trả lại di sản của ông Lê Công Đ và bà Lê Thị H là diện tích 642m2 đất ở, đất vườn, nhà và các tài sản trên thửa đất 343 tờ bản đồ số 14 tại xóm 2 mà bà Kh đang sử dụng từ sau ngày ông Đ và bà H qua đời.
Theo hồ sơ chuyển quyền sử dụng đất từ bà Lê Thị H (vợ ông Lê Công Đ) sang cho ông Lê Văn Q, được thực hiện từ ngày 06/8/2008 đến ngày 17/9/2008 (ngày UBND huyện Quỳnh Lưu cấp Giấy chứng nhận QSD đất số AL993058) trong “Văn bản phân chia tài sản thừa kế” được UBND xã Quỳnh H chứng thực ngày 26/8/2008 tại Văn phòng UBND xã Quỳnh H, bà Lê Thị Ng, Lê Thị N và ông Lê Văn Q đã đồng ý (ký tên) đồng ý “giao lại cho ông Lê Văn Q được quyền quản lý và sử dụng lâu dài” toàn bộ tài sản trên đất và quyền sử dụng 639m2 đất (200m2 đất ở và 439m2 đất vườn) được ghi trong Giấy CNQSD đất số K726765 mang tên bà Lê Thị H.
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, tôi thấy anh Th còn thiếu nhiều chứng cứ để chứng minh quyền và lợi ích hợp pháp của anh và mẹ anh. Tôi bắt đầu vào cuộc. Bà B và bà Ng, bà N ủy quyền cho anh Nguyễn L (từng là trợ giúp viên của một Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An) giúp lập hồ sơ khởi kiện, tham gia tố tụng. Tôi và anh L đã biết nhau từ lâu.
Tôi được thẩm phán cho chụp hồ sơ vụ án và tôi đã phát hiện ra rất nhiều “khập khiễng” trong hồ sơ khởi kiện của bà B. Hồ sơ khởi kiện cho rằng: Ông Q không phải là con của ông Đ, mặc dù khi bà H còn sống, theo nguyện vọng của chồng, bà H đã đón ông Q về và lo hương khói, hậu sự cho những người trong gia đình này quá cố (kể cả hương khói cho 2 người con ông Đ và bà B qua đời như trình bày trên. Trước đó, bà B, bà Ng và bà N đã đòi ông Th và bà Kh phải cắt 1/3 thửa đất để làm nhà thờ. Người đứng sau vụ kiện này là ông D chồng bà N. Chính ông D là Chủ tịch UBND xã Quynh H thời điểm mà bà H được cấp GCNQSD đất đối với thửa đất tranh chấp này. Và chính ông D cũng là người lập hồ sơ cấp GCNQSD đất cho ông Q từ bà H (mẹ vợ ông Đ) và là người biết rõ bà B không ký trong văn bản chia thừa kế sau khi ông Đ (bố vợ ông D) qua đời. Ngày sinh và ngày mất của những người trong gia đình bà B (người khởi kiện) trong hồ sơ (Giấy Khai tử) không đúng với ngày sinh, năm sinh, ngày mất, năm mất trên bia mộ ở ngoài nghĩa trang. Theo tài liệu có trong hồ sơ do ông Nguyễn L lập, bà H được cấp GCNQSD đất đối với thửa đất tranh chấp này, khi bà H đã qua đời. Từ đó, tôi đã làm Đơn phản tố đối với nội dung khởi kiện của vụ án vào ngày 14/3/2022 và được Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu chấp nhận.
Nhận thấy những chứng cứ mà tôi cung cấp bổ sung trong quá trình giải quyết vụ án, thẩm phán Y nhận thấy phải chuyển vụ án lên Tòa án nhân dân tỉnh thụ lý giải quyết mới đúng thẩm quyền. Vì vậy, ngày 29/8/2022 Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu đã ký quyết định số 06/2022/QDDST-DS, chuyển vụ án lên cho Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An. Theo đó, ngày 06/01/2023, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đã ban hành thông báo số 02/2023/TB-TLVA thụ lý vụ án này.
Từ đó đến nay, vụ án vẫn chưa được đưa ra xét xử vì Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đang yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu xác minh, bổ sung thêm một số văn bản, tài liệu nữa.
Mặc dù là bị đơn, nhưng ông Nguyễn Văn Th rất muốn Tòa xét xử vụ án vì bà Kh (mẹ anh Th, vợ ông Q) đã già yếu, là cựu thanh niên xung phong nên sức khỏe giảm sút nhiều từ khi bị các chị chồng đòi lại đất với lý do chồng bà không phải con ông Đ.
Nguyên nhân xảy ra vụ kiện này, là do các O khi về giỗ cha, giỗ mẹ, giỗ anh, giỗ em tại nhà bà Kh, chẳng hiểu lăn tăn gì mấy đồng tiền “kính lễ” hay vì phật ý việc gì đó, nên 3 bà O đã quay xe với em dâu. Bà Kh nói với tôi: “Con ơi. Nếu biết các O như ri thì ngày xưa bà xin ra ở chỗ khác rồi. Hồi đó, đất xã cho không. Ai muốn ở chỗ nào thì cứ lên xin xã”. Bà có tội tình chi với ông Đ, bà H và ông Q đâu mà cuối đời các O nỡ lôi bà ra Tòa thế này?
Khi tôi nhận giúp bà Kh vụ án này, lãnh đạo xã Quỳnh H rất ủng hộ. Họ biết rất rõ rằng, ông Q chính là đứa con trai “ngoài luồng” của ông Đ sau khi anh L Công Đ hy sinh ở chiến trường, người con trai út (em ruột và B, bà Ng, bà N chết sớm vì yểu mệnh). Vì ông Q là “con ngoài luồng” nên khi bà H (mẹ đẻ của nguyên đơn) nhận về, đã lên UBND xã Quỳnh H làm giấy khai sinh. Do nghĩ đơn giản nên bà H đã đề nghị cán bộ tư pháp xã Quỳnh H ghi vào mục mẹ đẻ của ông Q là bà H chứ không phải là bà Bùi Thị K.
Qua câu chuyện pháp lý này, tôi muốn khuyên mọi người rằng, hãy cẩn trọng với những quy định pháp luật. Đừng chủ quan và đừng để đến khi hậu quả xấu xảy ra rồi mới tìm đến luật sư cầu cứu. Luật sư là luật sư, không phải thẩm phán, hay điều tra viên, kiểm sát viên, để có thể cứu vãn được những tình huống phức tạp, khó nói.
Hà Nội, ngày 11/10/2024
Tác giả: Luật sư Trần Cường
Giám đốc Công ty Luật TNHH Hướng Thiện